Áp xe gan đường mật – Biến chứng nguy hiểm của sỏi gan, mật
Áp xe gan đường mật là bệnh lý cấp cứu về tiêu hóa, bệnh có thể do sỏi mật lớn làm tắc dịch mật, viêm nhiễm dường dẫn mật dẫn đến làm mủ và tạo ổ áp
xe trong đường mật, sau đó lan sang nhu mô gan. Bệnh nhân áp xe gan đường mật cần
được chẩn đoán, điều trị kịp thời đề phòng những biến chứng nguy hiểm đe dọa
tính mạng người bệnh.
Bệnh áp xe gan thường do amip (ký
sinh trùng Entamoeba Histolytic sống ký sinh ở đại tràng.) hoặc do vi khuẩn gây
nên. Trong bài viết này chúng ta sẽ đi sâu tìm hiểu về áp xe gan do vi khuẩn xâm
nhập khi đường mật bị viêm nhiễm, thường là do sỏi đường mật (sỏi ống mật chủ)
hoặc sỏi mật trong gan (bệnh sỏi gan) gây nên.
Bệnh áp xe gan đường mật là gì?
Bệnh áp xe gan là sự mưng mủ trong tổ chức gan. Ổ mủ có thể to hoặc
nhỏ, đơn độc hay nhiều ổ mủ khác nhau. Áp xe gan là một bệnh rất nguy hiểm vì sẽ
gây nhiễm khuẩn, nhiễm độc tế bào gan và có thể xảy ra biến chứng nghiêm trọng.
Bệnh áp xe gan đường mật là bệnh áp xe do viêm đường mật lan sang
nhu mô gan tạo nên. Bệnh thường có biểu hiện khác nhau tùy theo người lớn hay
trẻ em khi bị mắc bệnh.
![]() |
Áp xe gan đường mật – Biến chứng nguy hiểm của sỏi gan, mật. |
Nguyên nhân gây áp xe gan đường mật thường là:
- Biến chứng của sỏi mật: Trong điều kiện bình thường, dòng chảy của
dịch mật được lưu thông trong đường mật không có vi khuẩn hoặc số lượng vi khuẩn
rất ít không đủ để gây bệnh. Khi đường mật có sỏi, nếu sỏi lớn sẽ gây tắc nghẽn
đường mật, ứ trệ và tăng áp lực dịch mật dễ gây tổn thương đường mật tạo điều
kiện thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhập gây nhiễm khuẩn đường mật, tạo mủ và hình
thành ổ áp xe gan mật. Do đó, áp xe gan đường mật thường kèm các triệu chứng của
sỏi mật và bùn mật trong ống mật chủ và ống mật trong gan (sỏi gan).
- Do giun: trường hợp này hay gặp ở trẻ em, do giun lên đường mật
gây viêm đường mật và áp xe.
- Do cả sỏi mật và giun: trong
thực tế nhiều trường hợp bệnh nhân bị áp xe gan đường mật thường do cả sỏi mật và
giun gây nên.
Phân biệt áp xe gan đường mật với áp xe gan do amíp
Việc phân biệt áp xe gan đường mật
với ápxe gan amíp rất quan trọng vì nó quyết định cách xử trí can thiệp khác
nhau không những đối với ổ ápxe mà còn cả với những biến chứng khi ápxe gan vỡ
vào ổ bụng hay lồng ngực.
Áp xe gan amíp thường là áp xe
đơn độc, hay nằm bên gan phải, trong mủ không có vi khuẩn, điều trị bằng cách
chọc hút mủ hoặc rạch dẫn lưu mủ bệnh có thể khỏi, tỉ lệ tử vong khoảng 4 - 8%.
Áp xe gan đường mật thường có nhiều
ổ nhỏ, thành bọc ápxe cứng, mủ chứa nhiều vi khuẩn gram âm và vi khuẩn yếm khí,
kèm thêm tắc đường dẫn mật nên việc xử trí can thiệp ngoại khoa phức tạp hơn, tỉ
lệ tử vong có thể chiếm tới 80%; hiện nay nhờ những kỹ thuật tiến bộ về phẫu
thuật cắt gan nên thời gian gần đây tỉ lệ tử vong giảm xuống còn khoảng 14%.
![]() |
Dấu, hiệu, triệu chứng của áp xe gan đường mật. |
Dấu hiệu, triệu chứng của áp xe gan do đường mật
Dấu hiệu, triệu chứng của ápxe
gan đường mật có biểu hiện khác nhau tùy theo lứa tuổi.
- Đối với người lớn, bệnh
nhân thường bị sốt cao, thể trạng suy sụp nhanh, có khi mê sảng, huyết áp hạ,
kèm theo dấu hiệu nhiễm khuẩn máu, vàng da, đi tiểu ít. Sờ nắn thấy gan to xuống
dưới bờ sườn, mật độ gan rắn chắc hơn so với ápxe gan do amíp, có khi có cục lổn
nhổn dễ nhầm lẫn với ung thư gan; vì vậy cần phân biệt rõ.
Dấu hiệu thường gặp ở áp xe gan
do amíp là ápxe đơn độc, có xu hướng phát triển lên trên bề mặt của gan, có dấu
hiệu rung gan dương tính, đau khi ấn gian sườn số 9 bên phải trên đường nách giữa.
Trái lại, ápxe gan đường mật thường
nằm ở phía gan trái, nếu gan trái to có thể nắn thấy thành bụng co cứng ở dưới
mũi xương ức, ấn vào điểm dưới mũi xương ức gây đau. Có trường hợp đôi khi ápxe
gan đường mật là loại ápxe đơn độc, to, nổi lồi lên dưới mặt da cạnh rốn hoặc
dưới bờ sườn phải kèm theo vàng da nên ở những người trẻ có thể nhầm lẫn với
nang ống mật chủ.
- Ở trẻ em, do không có sỏi
làm tắc ống mật nên không thấy triệu chứng vàng da, bilirubin máu không tăng
cao nhưng có sốt do giun chui vào ống mật gây nên những cơn đau dữ dội. Ấn vào
dưới mũi xương ức làm bệnh nhân đau, điềm này tương ứng với điểm phân thùy 2 của
gan, nơi giun hay chui lên.
Sau khoảng 1 - 2 tuần, cơn đau giảm
đi nhưng vẫn sốt cao, sốt dai dẳng hàng tháng, thở nông nên dễ nghĩ đến thâm nhiễm
bệnh lao; chân bị phù, tiểu ít nên tưởng là bị viêm thận; da xanh xao, gầy còm,
mặt và chân phù thường nghĩ tới tình trạng suy dinh dưỡng. Trong thời gian này
ápxe gan đường mật đã hình thành, phát triển ra mặt gan rồi vỡ gây biến chứng nặng
dẫn đến tử vong.
Các biến chứng nguy hiểm của bệnh áp xe gan đường mật
Gan là một cơ quan quan trọng với
nhiều chức năng như dự trữ năng lượng, tạo protein và loại bỏ những chất gây hại
khỏi cơ thể. Áp-xe gan là một bệnh lý rất
nguy hiểm về gan vì sẽ gây nhiễm khuẩn, nhiễm độc tế bào gan và có thể xảy ra
biến chứng nghiêm trọng như:
- Chảy máu đường mật là một biến
chứng nặng chỉ gặp trong ápxe gan đường mật. Theo các nhà khoa học, chưa có trường
hợp nào bị chảy máu đường mật do ápxe gan amíp mặc dù loại ápxe này tuy xuất
phát từ các tĩnh mạch cửa trong nhu mô gan nhưng các tĩnh mạch bị viêm tắc,
trong mủ có khi lẫn một ít máu mà không chảy máu ồ ạt kể cả sau khi dẫn lưu ổ
ápxe. Điều trị chảy máu đường mật bằng cách mở ống mật chủ lấy bỏ dị vật rồi
bơm rửa. Trường hợp còn chảy máu thì thắt động mạch gan nếu không khu trú được
vị trí chảy máu, có thể thắt thùy gan trái hay tiểu thùy gan phải nếu khu trú
được vị trí chảy máu. Nếu cắt toàn bộ gan phải thì tỉ lệ tử vong sẽ rất cao vì
thể trạng bệnh nhân đã yếu sẵn. Có thể luồn ống thông vào động mạch gan để nút
mạch.
- Áp xe gan đường mật vỡ vào ổ bụng
có thể gây ra áp xe dưới cơ hoành hay viêm toàn bộ màng bụng. Ápxe gan đường mật
vỡ vào lồng ngực thường gây tử vong cao. Việc chẩn đoán và xử trí áp xe gan đường
mật vỡ vào lồng ngực dễ thiếu sót vì chẩn đoán áp xe đường mật nhưng không chẩn
đoán viêm mủ màng phổi nên không dẫn lưu lồng ngực hoặc ngược lại chỉ chẩn đoán
viêm mủ màng phổi mà không xử trí ápxe đường mật. Khi bệnh nhân vào cấp cứu tại
bệnh viện, triệu chứng khó thở do viêm mủ màng phổi lấn át triệu chứng ápxe gan
đường mật đã bị vỡ. Trong trường hợp này cần dẫn lưu màng phổi cấp cứu và những
ngày sau đó phải mở bụng thăm dò, mở thông ống mật chủ và dẫn lưu thì ổ ápxe
gan đường mật thì viêm mủ màng phổi mới lành được. Ngược lại nếu chỉ mở đường bụng
để dẫn lưu đường mật, lỗ thông giữa gan với lồng ngực qua cơ hành hoạt động như
một cái van, lúc mở lúc đóng nên không thể dẫn lưu hết mủ trong lồng ngực được
sẽ gây nên tình trạng dính phổi và ổ mủ đóng kén hoặc rò mủ thành ngực.
- Áp xe gan đường mật có khi gây
rò làm thông ống mật với phế quản hoặc gây áp xe dưới cơ hoành, thủng cơ hoành
rồi thông với phế quản. Thực tế thường gặp rò thông giữa nhánh ống mật của tiểu
phân thùy 8 với một nhánh của thân phế quản nền của thùy dưới phổi phải. Trường
hợp này phải mở bụng, lấy hết dị vật ở ở đường mật đã gây tắc mật. Khi đường mật
đã lưu thông, lỗ rò có thể liền được. Có khi sau một thời gian phải mở lồng ngực,
cắt bỏ các sẹo xơ rồi khâu đóng lỗ thủng cơ hoành và phổi hoặc có khi phải cắt
một phân thùy hay thùy dưới phổi phải.
- Áp xe gan đường mật có thể gây
viêm mủ màng tim vì ápxe gan đường mật thường nằm ở thùy trái của gan nên có thể
gây thủng cơ hoành và vỡ vào ở màng tim. Diễn biến thường xảy ra đột ngột trên
bệnh nhân đang được theo dõi ápxe gan trái, phần lớn các trường hợp đều bị tử
vong do không kịp xử trí can thiệp. Nếu phát hiện kịp thời, phải mổ dẫn lưu
màng tim. Trong các trường hợp ápxe gan vỡ vào màng tim thì phần lớn là bệnh
nhân bị ápxe gan đường mật, rất ít người bệnh bị ápxe gan amíp.
![]() |
Điều trị áp xe gan đường mật. |
Cách điều trị, phòng ngừa bệnh áp xe gan đường mật
Các xét nghiệm hỗ trợ chẩn đoán
Trên thực tế, dấu hiệu ở phim chụp
X-quang bệnh áp xe gan đường mật cũng tương tự như bệnh áp xe gan do amíp nhưng
khó phát hiện hơn vì thường là những ổ ápxe nhỏ. Áp xe gan đường mật chẩn đoán
chậm thường có kèm theo áp xe dưới cơ hoành, nhất là trường hợp ở trẻ em. Chụp
hình đường mật qua da dễ thực hiện vì ống mật giãn. Nếu bệnh nhân mới mổ đường
mật, còn để ống dẫn lưu thì có thể chụp kiểm tra bằng thuốc cản quang. Trên
phim chụp có thể thấy những hình ảnh như thuốc nhòe ra ngoài đường mật, những ổ
áp xe nhỏ bám vào thành ống mật như chùm hoa, khu trú ở một bên tiểu phân thùy
hay nhiều tiểu phân thùy khác nhau cả gan phải lẫn gan trái, thường gặp nhất là
ở tiểu phân thùy 2 và 8 hoặc thấy ổ ápxe thông với đường mật nếu chọc đúng ổ
ápxe hay hình ảnh nhánh mật bị cắt cụt nếu ổ ápxe đóng kén cách biệt với ống mật.
Xét nghiệm công thức máu thấy bạch
cầu tăng cao 15.000 - 20.000mm3 máu, tốc độ lắng máu cao 60 - 100mm trong giờ đầu,
bilirubin máu cao 30 - 50mg/lít; urê máu cũng có xu hướng tăng cao trên
0,5g/lít, nếu kèm theo nhiễm khuẩn huyết có thể trên 1 g/lít. Thủ thuật chọc dò
hút mủ khó thực hiện vì thường là ápxe nhỏ rải rác. Trường hợp ápxe to chọc hút
mủ thấy màu trắng hay vàng kem nếu bị nhiễm tụ cầu khuẩn, trực khuẩn Coli; có
màu xanh lục nếu bị nhiễm trực khuẩn mủ xanh.
Cách điều trị áp xe gan đường mật
Điều trị bệnh áp xe gan đường mật bằng
kháng sinh liều cao thường thất bại vì thành ổ ápxe xơ dày, các mạch máu bị tắc
nghẽn nên thuốc điều trị không có tác dụng đến các vi khuẩn. Vì vậy cần áp dụng
nguyên tắc điều trị nếu có mủ phải dẫn lưu hoặc cắt gan.
Thực tế vì những ổ áp xe nhỏ nằm
rải rác nên khó chọc dò hết mủ. Nếu chọc đúng ổ ápxe, hút ra mủ, đặt ống dẫn
lưu sẽ bị rò mật kéo dài dẫn tới tình trạng suy kiệt vì đường dẫn mật phía dưới
bị tắc nghẽn. Động tác cơ bản là mở ống mật chủ, lấy hết dị vật, sỏi hay giun để
mật và mủ có thể chảy qua cơ vòng xuống tá tràng.
Trong trường hợp áp xe đóng kén
ngăn cách với các nhánh mật trong gan, có thể dùng kẹp cong đưa qua ống mật chủ
từ dưới lên phá vách ápxe để dẫn lưu, tay trái phẫu thuật viên đặt trên mặt gan
để hướng dẫn đường đi của kẹp. Sau khi đặt ống dẫn lưu ống mật chủ, trong những
ngày sau mổ cần dùng những kháng sinh chống vi khuẩn gram âm như gentamycine và
vi khuẩn yếm khí như flagyl; có thể vừa tiêm truyền thuốc vừa bơm vào đường mật
qua ống dẫn lưu.
Nếu những ổ áp xe khu trú ở một
hay vài tiểu phân thùy hoặc ở bên gan trái, có thể tiến hành phẫu thuật cắt gan
để tránh những biến chứng nặng. Khi cắt bỏ toàn bộ gan phải có thể rất nguy hiểm
vì bệnh nhân bị suy kiệt và nhiễm khuẩn nặng, vì vậy cần cố gắng phá vách ổ áp xe
để dẫn lưu qua ống mật chủ.
Phòng ngừa áp xe gan đường mật bằng cách nào?
Áp xe đường mật thường là do sỏi
mật hoặc do giun gây nên, do đó để phòng ngừa bệnh thì bên cạnh việc duy trì một
chế độ ăn uống điều độ, bảo đảm vệ sinh thì cũng cần tẩy giun theo định kỳ, thường 6 một lần để hạn chế các
yếu tố thuận lợi cho các bệnh lý viêm, nhiễm khuẩn đường mật xảy ra.
Theo TTƯT. BS. Nguyễn Võ Hinh
Áp xe gan đường mật – Biến chứng nguy hiểm của sỏi gan, mật
Reviewed by Hau Nguyen
on
tháng 9 13, 2017
Rating:
